ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HỒ CHÍ MINH

CÔNG TY LUẬT TNHH NAM HÀ VÀ CỘNG SỰ

NHẬT KÝ BÀO CHỮA – TAND TỈNH BÌNH DƯƠNG CHẤP NHẬN QUAN ĐIỂM BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ CÔNG TY LUẬT NAM HÀ TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM NGÀY 28/6/2024

Ngày 28/6/2024, TAND tỉnh Bình Dương mở phiên xét xử sở thẩm đối với bị cáo N.H.T bị VKSND tỉnh Bình Dương truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự. Tham gia bào chữa cho bị cáo T trong vụ án này, Công ty Luật Nam Hà đã cử Luật sư Nguyễn Tri Thắng và Luật sư Lê Thị Quỳnh Anh tham gia bào chữa cho bị cáo trong suốt giai đoạn Điều tra – Truy tố – Xét xử.

ĐỊA CHỈ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Tóm tắt nội dung vụ án

THỜI GIAN

SỰ KIỆN

24/03/2023

Ông D có gửi Đơn tố giác tội phạm đến CQCSĐT Tỉnh Bình Dương và VKSND Tình Bình Dương đối với hành vi của ông T có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo nội dung thỏa thuận về việc chi phí cho chuyển thi hành án tại Long An và giảm nhẹ hình phạt từng năm với giá 1 tỷ 700 triệu đồng, ông D đã chuyển tiền cho T hai lần, cụ thể như sau:

+  Lần 1: Ngày 21/2/2022 chuyển 700.000.000 đồng

+  Lần 2: Ngày 28/02/2022, chuyển 300.000.000 đồng

Sau khi nhận tiền, T không giúp đỡ gì cả, kể cả khi bà H chuyển từ trại giam Chí Hòa sang T30 Củ Chi lên Bồ Lá. Sau đó, ông D gặp ông T để xin lại số tiền đã chuyển nhưng ông T kêu từ từ và cắt đứt liên lạc.

14/07/2023

CQCSĐT Công an tỉnh Bình Dương ban hành Kết luận giám định số 386/KL-KTHS (KTS-ĐT)  đối với 1 điện thoại Iphone 7 plus để trích xuất danh bạ, ứng dụng viber, tài khoản viber bằng số điện thoại 0908 xxx xxx.

28/07/2023

Ông D có đơn xin rút trình báo tố giác tội phạm về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông T chưa đủ tính chất và mức độ nguy hiểm để phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự

18/08/2023

CQCSĐT Công an tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định khởi tố bị can số 283/QĐ-VPCQCSĐT đối với ông T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 179 BLTTHS

8/11/2023

Bản tự khai của ông T có nội dung:

– Khai nhận có đồng ý giúp bà H trong việc đưa đi thi hành án tại trại giam gần nhà, quá trình cải tạo được lao động công việc nhẹ và được giám ản trong quá trình chấp hành án với tiền: 1 tỷ 700 triệu đồng.

– Sau đó, ông D có chuyển khoản 2 lần:

+ Lần đầu: 700 triệu đồng

+ Lần hai: 300 triệu đồng

Khi bà H bị đưa đi trại giam Chí Hòa, ông D có yêu cầu ông T trả lại tiền do không liên hệ được bà H. Tôi đồng ý trả lại tiền nhưng do tiêu xài cá nhân nên lúc đó ông T chưa có tiền trả.

29/11/2023

CQCSĐT – CA Tỉnh Bỉnh Dương ban hành BKLĐT số 272A/BKL-VPCQCSĐT đề nghị truy tố bị can T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 174 BLHS; tình tiết tăng nặng: Không; tình tiết giảm nhẹ: điểm s, b khoản 1 Điều 51 BLHS. Về trách nhiệm DS: bị can T đã khắc phục lại toàn bộ số tiền 1.386.000.000 đồng cho bị hại D.

23/01/2024

VKSND tỉnh Bình Dương ban hành Bản cáo trạng số 29/CT-VKSBD-P2 quyết định truy tố bị can T ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương để xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS.

03/2024

Bị cáo T và gia đình bị cáo có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gửi Tòa án và Viện kiểm sát.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ nhận thấy bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, đã khắc phục hết hậu quả và có nơi cư trú rõ ràng, các Luật sư đã tư vấn cho gia đình bị can T phương án làm Đơn bão lãnh xin tại ngoại cho bị can T. Ngày 01/12/2023, bị can T đã được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ biện pháp tạm giam chuyển sang biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm ngày 28/6/2024, Đại diện VKS giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo T từ 10 đến 12 năm tù, các Luật sư bào chữa cho bị cáo T trình bày một số luận điểm như sau:

1/ Đề nghị HĐXX xem xét, đánh giá lại động cơ, mục đích và hành vi phạm tội của bị cáo T khi lượng hình:

  • Các Biên bản ghi lời khai của bị hại và Biên bản hỏi cung bị can đã thể hiện: Bị hại D đã liên hệ và yêu cầu bị cáo T thực hiện các công việc với chi phí do các bên tự thỏa thuận, có rất nhiều người biết và tham gia trong việc này, bị cáo T không đưa thông tin gian dối để lừa đảo ông D.
  • Các căn cứ chứng minh bị cáo T đưa thông tin gian dối nhằm chiếm đoạt số tiền của bị hại D là chưa phù hợp, D đã tự nguyện chuyển tiền cho T thực hiện công việc, không phải do T yêu cầu hay đưa ra các thông tin gian dối để buộc D phải chuyển tiền sau đó này sinh ý định chiếm đoạt như Cáo trạng nhận định.
  • Mục đích thỏa thuận ban đầu giữa ông D và bị cáo T nhằm giúp chị H, đến khi nhận thấy không thực hiện được công việc theo thỏa thuận thì bị cáo T đã có động thái hoàn tiền lại cho D, không có ý định chiếm đoạt số tiền này, thể hiện ở việc T đã vay tiền của K và nhờ K thay mình khắc phục toàn bộ số tiền đã nhận của D (cả gốc và lãi).
  • Trong vụ án này, bị hại cũng có một phần lỗi. Từ nhận thức sai lầm thương con không đúng nơi đúng chỗ, ông D đã thông qua một người khác liên hệ với bị cáo T để thỏa thuận thực hiện các công việc, bị cáo T cũng là nạn nhân trong vụ việc này.

2/ Đề nghị HĐXX xem xét và cho bị cáo T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ, bao gồm:

  • Bị cáo T đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi phạm tội của bản thân gây ra: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS
  • Trong giai đoạn điều tra – truy tố – xét xử, bị cáo T thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải: Đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS
  • Trong quá trình công tác, bị cáo T có nhận biểu dương tích cực tình nguyện tham gia phòng chống dịch bệnh Covid-19 với các Đơn vị trên địa bàn: Đề nghị áp dụng điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS
  • Bị cáo T phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: Đề nghị áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS
  • Đồng thời, các Luật sư cũng đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS như: Bị hại có một phần lỗi và đã có đơn xin rút đơn tố giác; Bị cáo không có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu; Bị cáo là lao động chính trong gia đình; Bị cáo cũng đang điều trị bệnh; Gia đình bị cáo có ông bà, cha mẹ có nhiều bằng khen, giấy khen, huân huy chương, Chiến sĩ vẻ vang được Nhà nước trao tặng.

Theo quan điểm của Luật sư, không cần thiết phải bắt chấp hành hình hình phạt tù đối với bị cáo T do bị cáo còn khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần áp dụng Điều 65 BLHS giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo là phù hợp.

Sau quá trình thẩm vấn công khai, tranh luận tại phiên tòa và nghị án, HĐXX đã xử phạt bị cáo ghi nhận các quan điểm bào chữa của Luật sư Công ty Luật Nam Hà, xử phạt bị cáo T 07 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS (Thấp hơn 05 năm so với đề nghị của Đại viện VKS).

Chia sẻ:

Share on facebook
Facebook
Share on twitter
Twitter
Share on pinterest
Pinterest
Share on linkedin
LinkedIn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Social Media

Bài viết mới

Danh Mục