ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HỒ CHÍ MINH

CÔNG TY LUẬT TNHH NAM HÀ VÀ CỘNG SỰ

TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN LỪA ĐẢO HƠN 38 TỶ ĐỒNG – HĐXX PHÚC THẨM GHI NHẬN QUAN ĐIỂM BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ CÔNG TY LUẬT NAM HÀ

Chiều ngày 26/8/2024, TAND Cấp cao tại Tp. HCM mở phiên xét xử phúc thẩm đối với bị cáo N.N.T bị TAND Tp. Hồ Chí Minh xử phạt tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Sau khi một trong số các bị hại kháng cáo về phần nghĩa vụ dân sự trong bản án sơ thẩm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo về việc bỏ lọt tội phạm, Công ty Luật Nam Hà và Cộng Sự đã cử Luật sư Nguyễn Tri Thắng tham gia bào chữa cho bị cáo N.N.T tại phiên tòa phúc thẩm.

Hồ sơ vụ án thể hiện, T không có nghề nghiệp ổn định, chỉ ở nhà phụ giúp gia đình, song đi đến đâu cũng xưng làm công an. Năm 2009, Thiện bị TAND TP.HCM tuyên phạt 8 năm tù về hành vi mạo danh cảnh sát đặc nhiệm Công an TP. HCM, có thể mua được các loại xe tay ga thanh lý giá rẻ, lừa nhiều người đưa tiền rồi chiếm đoạt hơn 80 triệu đồng. Không lâu sau khi mãn hạn tù T tiếp tục thực hiện chiêu thức cũ.

Cáo trạng xác định, khoảng giữa năm 2018, T được bà L nhờ giúp người em họ đòi lại tiền từ một công ty làm dịch vụ xuất cảnh, định cư ở nước ngoài. Công ty này nhận làm thủ tục đưa em bà L đi nhưng không thực hiện, không trả lại tiền.

T nhận lời, tự xưng làm trong ngành công an, hù dọa giám đốc công ty trên phải trả lại tiền nếu không “sẽ bị xử lý”. Vài ngày sau, em bà L được công ty trả tiền.

Gia đình bà này sau đó mời cơm “cán bộ công an” để cảm ơn. Trong bữa tiệc, T giới thiệu với nhiều người đang giữ chức Phó thanh tra Bộ Công an, đơn vị có lô 12 ô tô cao cấp cần thanh lý giá rẻ. Sau đó bà L đưa cho T 2,9 tỷ đồng nhờ mua hai chiếc Lexus LX570, đồng thời giới thiệu cho nhiều người quen gom hơn 10 tỷ đồng đưa cho T đặt mua xe.

Thời gian sau, T bịa lý do “mua xe giá rẻ, phải lo chi phí cho nhiều cơ quan ban ngành” nên giao xe trễ. Khi không thể “câu giờ” thêm, T thuê 2 ô tô đưa cho bà L, né tránh những người khác.

Do bà L đứng ra nhận tiền để mua giúp bạn bè nhưng T không có xe giao. Trong số đó, có ông H đặt mua 3 chiếc xe hạng sang với giá gần 5 tỷ đồng.

Cũng trong thời gian này, T nói với bà L được người thân tặng lô đất giá trị lớn ở Đồng Nai nhưng đang thế chấp ngân hàng, nếu bà L đưa 400 triệu đồng để giải chấp sẽ giao giấy tờ cho giữ. Ông ta còn nói có thể mua được các căn hộ Chung cư Bộ Công an trên đường Trần Não, TP Thủ Đức, với giá 700 triệu đồng và một căn biệt thự Vinhomes Tân Cảng với giá giảm 40%.

Tin tưởng T nên bà L nhiều lần đưa cho T hơn 3,2 tỷ đồng để giải chấp khu đất ở Đồng Nai, đặt cọc mua 31 căn hộ tại Chung cư Bộ Công an và làm nội thất cho căn biệt thự ở Vinhomes. Chờ rất lâu không thấy T thực hiện như cam kết, bà L và các nạn nhân khác tìm hiểu, phát hiện bị lừa nên tố cáo. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định tổng cộng T đã chiếm đoạt của bà L gần 8,8 tỷ đồng và của những người khác (do bà L giới thiệu) hơn 6,2 tỷ đồng.

Ngoài ra, T biết bà P (ngụ Bà Rịa – Vũng Tàu, người được ủy quyền giải quyết tranh chấp căn nhà trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, TPHCM) đang cần Thanh tra Bộ Công an tác động vụ việc nên lập kế hoạch lừa tiền.

T tiếp tục tự xưng làm ở Bộ Công an, nếu bà P muốn thanh tra bộ “lên tiếng giải quyết nhanh vụ tranh chấp” phải chi 2,5 tỷ đồng. T còn nói có suất nội bộ được mua thanh lý căn nhà ở quận Phú Nhuận với giá rẻ nhưng không tiện đứng tên, sẽ giới thiệu cho bà P.

Bà P sau đó cùng một người bạn hùn tiền đưa cho T tổng cộng 10 tỷ đồng. Khi phát hiện bị lừa, bà P đòi lại tiền. T đã trả được hơn 2,5 tỷ đồng.

Vào tháng 3/2023, TAND Tp. Hồ Chí Minh đã đưa vụ án ra xét xử nhưng sau đó trả hồ sơ điều tra bổ sung, do nhiều người cho rằng bà L câu kết với T để chiếm đoạt tiền của họ. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra và VKS xác định không có chứng cứ nào cho thấy bà L móc nối với T để thực hiện hành vi lừa đảo nên hoàn hồ sơ.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 09/01/2024, hai người có quyền, nghĩa vụ liên quan cho biết đã chuyển cho bà L hơn 6,5 tỷ đồng đặt mua hai chiếc Lexus và một xe Camry, không biết bị cáo T. Do đó, họ tiếp tục đề nghị HĐXX xác định bà L là đồng phạm và có nghĩa vụ trả lại tiền cho mình.

Bản án sơ thẩm ngày 09/01/2024 đã xử phạt bị cáo T tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sư, buộc bị cáo T bồi thường cho các bị hại số tiền hơn 38 tỷ đồng, buộc bà L phải hoàn trả cho người liên quan số tiền hơn 7,4 tỷ đồng.

Sau phiên tòa sơ thẩm, bà L đã kháng cáo phần trách nhiệm dân sự, yêu cầu bị cáo T phải trả cho và L và những người khác số tiền hơn 18,2 tỷ đồng. Người liên quan đã kháng cáo yêu cầu Cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tránh nhiệm hình sự của bà L.

Trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư Nguyễn Tri Thắng đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bà L về phần trách nhiệm nhân sự do bà L không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc đã chuyển tiền sang cho bị cáo T, do đó và bà L phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền cho bị hại và người liên quan như trong bản án sơ thẩm. Trong vụ án này, bị cáo T không trực tiếp nhận tiền từ một số bị hại và người liên quan, bà L có trực tiếp nhận tiền từ những người này. Đồng thời, lời khai của bà L trong vụ án này có nhiều mâu thuẫn, chưa được làm rõ. Qua xét hỏi và tranh luận tại phiên Tòa, Luật sư Thắng cũng đã đề nghị HĐXX trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ những tình tiết còn mẫu thuẫn trong vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm.

Sau quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa và nghị án, HĐXX cấp phúc thẩm đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, qua đó làm rõ những tình tiết còn mâu thuẫn trong vụ án này./.

Chia sẻ:

Share on facebook
Facebook
Share on twitter
Twitter
Share on pinterest
Pinterest
Share on linkedin
LinkedIn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Social Media

Bài viết mới

Danh Mục