ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HỒ CHÍ MINH

CÔNG TY LUẬT TNHH NAM HÀ VÀ CỘNG SỰ

Vụ án “Tranh chấp thừa kế” kéo dài 22 năm – Luật sư Công ty Luật Nam Hà tham gia hòa giải thành tại Tòa án nhân dân Tp. HCM

Sáng ngày 19/03/2024, Tòa án nhân dân Tp. HCM mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp thừa kế và tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại” giữa Nguyên đơn là ông N.T.K (sinh năm 1989) và Bị đơn là bà N.T.T.H (sinh năm 1962). Luật sư Công ty Luật Nam Hà tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà N.L.N.T – Là 01 trong 06 đồng thừa kế được xác định là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

  1. Nguyên đơn: ông N.T.K (con của người để lại di sản)
  2. Bị đơn: N.T.T.H (vợ của người để lại di sản)
  3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông C, ông K, ông T1, ông T2, bà N.L.N.T …
  • Người để lại di sản: ông T
  • Ông T có 5 bà vợ gồm: bà H, bà V, bà P (chết năm 1988), bà C và bà HT
  • Ông T có 5 người con gồm: ông N.T.K bà N.L.N.T, ông K, ông T1 và ông T2
  • Di sản thừa kế: QSDĐ tại các địa chỉ A1, A2, A3, phường An Lạc, Quận Bình Tân, Tp. HCM
  • Các thừa kế của ông T: bà H, ông N.T.K, bà N.L.N.T, ông K, ông T1, ông T2
  • Các thừa kế của bà P (chết năm 1988): bà S, ông T3, ông T4

Ông T có 05 người vợ và 05 người con có thông tin như trên. Từ năm 1995-1996, ông T có hợp tác làm ăn với ông C, do thua lỗ nên ông T nhiều lần vay tiền của ông C và có viết cam kết. Đến năm 2002, ông T chết không để lại di chúc, di sản ông T để lại là 03 bất động sản tại số A1, A2, A3, Phường An Lạc, Quận Bình Tân, Tp. HCM.

Năm 2008, ông N.T.K (con ông T) khởi kiện bà N.T.T.H (vợ ông T) để phân chia di sản thừa kế

Tháng 01/2013, ông C đã khởi kiện yêu cầu bà H và các đồng thừa kế của ông T chịu trách nhiệm thanh toán lại cho ông C toàn bộ số tiền mà ông T còn nợ là 162.000 USD tương đương 3.551.850.000 VNĐ. Ông  C là người đang giữ 02 / 03 bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ của 03 bất động sản mà ông T để lại.

Tháng 09/2013, Tòa án nhân dân Tp. HCM có quyết định nhập 02 vụ án trên thành 01 vụ án để giải quyết. Tuy nhiên, do các bên có nhiều mâu thuẫn, không hợp tác, có người ở nước ngoài… trong quá trình Tòa án giải quyết, dẫn đến vụ việc kéo dài đến nay. 

Tóm tắt diễn biến vụ việc:

THỜI GIAN

NỘI DUNG

1995-1996

Ông C có hợp tác làm ăn với ông T (người để lại di sản đã chết) bằng cách chuyển bột mì và men khô về Việt Nam cho ông T bán. Tuy nhiên, trong quá trình làm ăn ông T bị thua lỗ nên có gửi fax để xác nhận khoản nợ 207.759 USD.

Năm 2002, vợ chồng ông T và bà H (Vợ 1 của ông T) có vay thêm của ông C số tiền 27.000 USD

10/09/2001

Ông T có viết Tờ cam kết với nội dung: “Nếu sau này tôi không có khả năng chi trả thì tôi sẽ nhượng 1 phần căn nhà tôi đang ở cho bà C1 (vợ ông C). Ranh giới được xác định như sau: Từ phần công nhà hiện hữu vô 30 m ngang 6 m (Tổng diện tích 180 m2) cho bà C1″.

2002

Ông T mất không để lại di chúc

08/07/2002

Bà H viết Tờ cam kết không tranh chấp với nội dung: “Nguyên vào năm 2000 bà có sống chung với ông T. Trước đó ông T có sẵn các căn nhà A1, A2, A3, Thị trấn An Lạc, Huyện Bình Chánh đó là tài sản riêng và do ông T tự tạo lập. Bà cam đoan không tranh chấp căn nhà vì là tài sản riêng của ông T, ông có quyền bán hoặc thế chấp.”

12/09/2002

Tờ giấy thỏa thuận gia đình có nội dung: “Hôm nay ngày 12/09/2002, bà C1 có ứng ra 200 triệu đồng cho ông N.L.T thanh toán tại Ngân Hàng.”

23/04/2003

Bà C1 viết giấy cam kết giao 1 phần nhà số A1, Thị trấn An Lạc, Bình Chánh với nội dung:

  • Giao đứt 1 phần căn nhà số A1, Thị trấn An Lạc, Bình Chánh  cho bà C1 với diện tích được xác định như sau: Từ phần cổng nhà hiện hữu vô 30 m ngang 6 m (Tổng diện tích 180m2) cho bà C1.
  • Phần nhà còn lại phía sau: bà H sẽ sử dụng để ở.

15/03/2007

Ông C nộp đơn khởi kiện bà H tại TAND Tp. HCM về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

26/02/2008

Ông N.T.K nộp đơn khởi kiện bà Hương tại TAND Tp.HCM với nội dung yêu cầu Tòa án buộc bà Hương chia di sản thừa kế 03 căn nói trên cho ông N.T.K là 250 triệu đồng

14/08/2008

TAND Tp. HCM ban hành Thông báo về việc thụ lý vụ án số XXX/DSST ngày XX/XX/2008 về “Tranh chấp thừa kế” giữa Nguyên đơn là ông N.T.K và Bị đơn là bà N.T.T.H

30/06/2009

TAND Tp. HCM ban hành QĐ tạm đình chỉ số XXX/2009/QĐST-DS về việc “Tranh chấp thừa kế” giữa Nguyên đơn là ông N.T.K và Bị đơn là bà N.T.T.H

06/12/2011

TAND Tp. HCM ban hành QĐ đình chỉ giải quyết vụ án DSST về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa Nguyên đơn là ông C và Bị đơn là bà N.T.T.H, do đại diện theo ủy quyền của ông C là bà H vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

17/04/2012

Bà N.T.T.H có đơn yêu cầu gửi TAND Tp.Hồ Chí Minh chia di sản thừa kế của ông T để cho các đồng thừa kế là:

1. Bà N.T.T.H – Là vợ ông T;

2. Ông N.L.T – Là con ông T;

3. Ông N.M.K – Là con ông T

4. Bà N.L.N.T – Là con ông T

03/08/2012

Ông C nộp lại đơn khởi kiện bà N.T.T.H tại TAND. Tp. HCM với nội dung: Yêu cầu bà H và các đồng thừa kế của ông T chịu trách nhiệm thanh toán lại cho ông Chân toàn bộ số tiền mà ông T, bà H còn nợ là 162.000 USD tương đương 3.551.850.000 VNĐ.
13/09/2012 Ông Đ (Đại diện cho ông C) trình bày các tài liệu chứng ông T còn nợ ông C, như sau:

1. Thư tay bà Hương viết ngày 25/11/1995 bằng fax.

2. Hai giấy chuyển tiền của Ngân hàng Commonwealth khi ông C chuyển về cho ông T, bà H; 02 phiếu nhận tiền của Vietcombank bà H, ông T nhận tiền do ông C chuyển về.

03/10/2012 TAND Tp.HCM ban hanh Biên lai nhận đơn với nội dung: Xác nhận nhận đơn của ông Đ với lý do xin gia hạn bổ sung đơn khởi kiện
19/11/2012 Ông C nộp đơn khởi kiện về việc đòi nợ và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại với nội dung bổ sung thêm chứng cứ, thông tin các đồng thừa kế của ông T và thông tin về 03 căn nhà do ông T đứng tên. Yêu cầu bà H và các đồng thừa kế của ông T trả lại toàn bộ số tiền 162.000 USD tương đương 3.447.360.000 đồng
24/12/2012 Theo hồ sơ, đơn kiện của TAND Tp.HCM về vụ án DSST với nội dung: ông C khởi kiện yêu cầu bà H và những người con của T trả lại toàn bộ số nợ của NĐ là: 162.000 USD tương đương 3.447.360.000 đồng
11/01/2013 TAND Tp.HCM ban hành Thông báo về việc thụ lý vụ án về việc Tranh chấp đòi nợ và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại theo đơn khởi kiện của Nguyên đơn là ông C

Yêu cầu khởi kiện của ông C: yêu cầu bà H và những người con của ông T trả lại toàn bộ số nợ cho Nguyên đơn là: 162.000 USD tương đương 3.447.360.000 đồng

11/03/2013 Ông K làm Bản tự khai với nội dung không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông C, vì khi còn sống ông T đã nói không thiếu nợ bất cứ ai.
25/06/2013 Đại diện ông C có bản tự khai với nội dung:

1. Cung cấp thông tin những người thừa kế của ông T

2. Cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh ông Tcòn nợ ông C

3. Cung cấp tài liệu các nhà đất là di sản do ông T để lại.

4. Số tiền yêu cầu bà H và các đồng thừa kế của ông T phải thanh toán là: 3.551.850.000 đồng

08/08/2013 Đại diện ông C có bản tự khai với nội dung: xác định yêu cầu đối với số tiền mà ông T còn nợ là 3.551.000.000 triệu đồng tương đương 162.000 USD bao gồm:

1. Bà H nhận tổng 27.000 USD qua các phiếu chuyển tiền ông C gửi về Úc do ông T bị bệnh ung thư phối cần tiền chữa bệnh;

2. Số tiền gửi bột mì và men khô

=> Tổng số tiền ông Thủy còn thiếu là: 162.000 USD.

 

30/09/2013 TAND Tp. HCM ban hành Quyết định nhập vụ án với nội dung: Quyết định nhập vụ án thụ lý ngày 11/01/2013 về việc “Tranh chấp đòi nợ và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại” và vụ án thụ lý ngày 14/08/2008 về việc “Tranh chấp thừa kế” thành 1 vụ án về việc “Tranh chấp thừa kế và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại”.
21/08/2015 TAND Tp. HCM ban hành Biên bản định giá tài sản đối với căn nhà và quyền sử dụng đất đối với:

1. Căn nhà và QSDĐ tại số A1, Phường An Lạc, Quận Bình Tân là: 5.205.810.000 đồng;

2. Căn nhà và QSDĐ tại số A2, Phường An Lạc, Quận Bình Tân là: 3.389.627. 600 đồng;

3. Căn nhà và QSDĐ tại số A3, Phường An Lạc, Quận Bình Tân là: 5.135.203.400 đồng.

15/12/2015 Đơn xin xác nhận của bà S với nội dung: Xác nhân ông T1 là con của bà P (vợ 2 ông T) và ông T
23/10/2017 Ông K có đơn yêu cầu độc lập với nội dung: Yêu cầu Tòa án buộc các đồng thừa kế của ông T là: Bà H, ông N.T.K, ông T1 và ông K có trách nhiệm liên đới hoàn lại cho ông T2 (con vợ 3 ông Đức) và bà T số tiền là: 196.391.670 đồng
23/10/2017 Bà H có Đơn yêu cầu phản tố với nội dung: Yêu cầu Tòa án xem xét buộc các đồng thừa kế của ông T gồm: ông Tuấn, bà T, ông K, ông N.T.K và T1 có trách nhiệm liên đới hoàn lại cho bà H số vàng SJC mà bà đã trả nợ thay cho ông T, tạm tính giá vàng tại thời điểm hiện nay là: 38.000.000 đồng/lượng x 10 lượng = 380.000.000 đồng. Các đồng thừa kế có trách nhiệm hoàn lại cho bà H số tiền: 317.278.333 đồng
06/12/2017 TAND Tp. HCM ban hành Biên bản hòa giải với nội dung các đương sự có ý kiến đề nghị Tòa án tạm dừng phiên tòa hòa giải để các bên sẽ tự trao đổi thỏa thuận và hỏi ý kiến của ông T2 và bà N đang cư trú ở nước ngoài.
08/12/2017 TAND Tp. HCM ban hành Biên bản hòa giải
07/02/2018 TAND Tp. HCM ban hành BB phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
12/12/2018 TAND Tp. HCM ban hành Biên bản hòa giải với nội dung các đương sự đồng ý yêu cầu Tòa án tiến hành định giá lại đối với tài sản đang tranh chấp là 03 căn nhà và đất tại địa chỉ A1, A2, A, Phường An Lạc, Quận Bình Tân, chi phí định giá do bà Tú tạm ứng thanh toán
15/08/2019 Đại diện của ông C (ông L) làm Đơn yêu cầu về việc triệu tập người làm chứng là bà C (vợ ông Thủy) từ năm 1992 đến năm 1996. Vì trong thời gian này, việc ông C cho ông T mượn tiền làm ăn bà C có biết việc này.

Do việc chuyển tiền về Việt Nam trong thời điểm này rất khó khăn, ông T và ông C thông nhất chuyển nguyên liệu làm bánh mỳ là bột mì và men khô thay vì gửi tiền về cho ông T. Sau đó ông T không kinh doanh nữa và còn nợ tiền của ông C. Toàn bộ sự việc trên bà C hoàn toàn biết và chính bà là người viết thư tay và fax qua cho ông C. Toàn bộ nội dung thư tay và Fax là do ông T đọc cho bà C viết.

26/08/2019 Bà C có bản tự khai với nội dung:

Năm 1992 đến năm 1996, bà C là vợ ông C. Trong thời gian này, bà có biết ông C cho ông T mượn tiền để kinh doanh làm bánh mì. Vào thời điểm này, việc chuyển tiền về VN rất khó khăn, cho nên ông T và ông C thống nhận chuyển nguyên liệu làm bánh mỳ là bột mì và men khô thay vi gửi tiền về cho ông T (số nguyên liệu này quy đổi bằng tiền). Sau đó, ông T không kinh nữa và còn nợ tiền ông C. Ông T có nhờ bà C viết thư tay và fax qua cho ông C toàn bộ nội dung thư tay và bản Fax là ông T đọc cho bà C viết:

Nội dung bản Fax, như sau: Sau đây anh tính số tiền anh còn nợ chú thím như sau:

– Số nợ cũ: 163.000 usd

– Cộng thêm 2 đọt men chót cuốn năm 1995: 43.789 usd

– Tổng số nợ là: 207.759 usd

– Tổng chi: 45.175 usd

Tổng số tiền thiếu là: 162.584 USD

03/12/2019 TAND Tp. HCM ban hành Biên bản hòa giải với nội dung các đương sự cùng thống nhất yêu cầu Tòa án định giá lại đối với nhà đất đang tranh chấp, đơn vị định giá do Tòa án chỉ định
16/10/2020 Công ty H.Đ ban hành Chứng thư thẩm định giá với nội dung: Tổng giá trị QSDĐ và công trình xây dựng trên đất tại số A1, A2 phường An Lạc, Bình Tân vào thời điểm tháng 10/2020 là: 37.015.793.000 đồng
06/11/2020 TAND Tp. HCM ban hành Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải với nội dung:

1. Nguyên đơn: ông N.T.K yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với 03 căn nhà nêu trên.

2. Bị đơn: bà H vắng mặt

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

  Bà H đại diện cho bà N.L.N.T trình bày:

+ Đối với yêu cầu ông C phía bà không đồng ý, vì lý do không có chứng cứ chứng minh và thời hiệu khởi kiện không còn.

+ Đối với yêu cầu ông Nước phía bà Tú không đồng ý vì từ ngày 23/5/2011 thì bà Tú đã có bản tự khai không nhượng kỷ phần của bà Tú cho ông Nước và đề nghị chia theo pháp luật.

Đối với 2 GCN QSDĐ do bà Lý Thị Ngọc Vân (mẹ ruột của ông Tuấn và bà Tú) giao cho ông Chân mượn.

 

– Ông N (em ông T): yêu cầu công nhận giấy cam kết tặng cho di sản của ông N.T.K, ông T1 và bà T cho ông N. Yêu cầu công nhận tờ trình tặng cho ông T cho ông N vào ngày 10/09/2001 gửi UBND thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh (Không có chứng thực).

Đại diện ông C: yêu cầu các đồng thừa kế của ông T phải thanh toán lại khoản tiền 162.584 USD (tương đương 3.700.000.000 đồng) mà ông T đã mượn ông C.

 

05/12/2022 TAND Tp. HCM ban hành Công văn số 6667/TATP-TDS về việc xác minh gửi Ban chỉ huy Công an Phường An Lạc với nội dung yêu cầu Quý cơ quan xác minh những vấn đề sau: “Tại địa chỉ số A1, A2, A3, phường An Lạc, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh hiện nay có những ai đăng ký hộ khẩu thường trú và tạm trú? Hiện nay địa chỉ 03 căn nhà trên có những ai đang thực tế cư trú”
09/05/2023 TAND Tp. HCM ban hành Công văn số 5541/TATP-TDS về việc xác minh tại địa chỉ Số A1, A2, A3 phường An Lạc, Quận Bình Tân hiện nay có những ai đang đăng ký hộ khẩu thường trú và tạm trú?

+ Tại địa chỉ A1: ông Nước, bà Huyền (ở Mỹ), cháu Phúc và cháu Tỷ và một số người tạm trú.

+ Tại địa chỉ A2: bà Hương, ông Khương, bà Thư, cháu Thảo, cháu Long và cháu Yến.

+ Tại địa chỉ A3: gồm những người thuê trọ

15/07/2023 Bà Từ Thu Hà làm Đơn đề nghị rút đơn yêu cầu độc lập đối với yêu cầu “Công nhận bà Hà là một trong những hàng thừa kế, được nhận một phần di sản thừa kế đối với TS của ông T để lại”
23/12/2023 Bà L (vợ ông C) có văn bản xác nhận với nội dung: Ông C là chồng của bà TH đang khởi kiện yêu cầu các thừa kế ông T phải trả ông Chân số tiền: 4.000.000.000 đồng. Bà TH xác nhận đây là tiền của ông C.
29/01/2024 TAND Tp. HCM ban hành Thông báo thụ lý số đối với yêu cầu độc lập của bà N.L.N.T với nội dung:

“1. Buộc ông C phải trả lại các đồng thừa kế của ông T bản chính GCN QSDĐ số 5513/2002 do UBND huyện Bình Chánh cấp cho ông T và bà P tại số A1, A3, Phương An Lạc, Quận Bình Tân.”

22/02/2024

Bà H có Đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại trước khi Tòa án cấp ST ra bản án, quyết định giải quyết vụ án với nội dung:

Yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu theo quy định của pháp luật nêu trên trước Tòa án giải quyết.

23/02/2024 TAND Tp. HCM có quyết định hoãn phiên tòa lần 1 do Người đại diện cho ông C có đơn xin hoãn phiên tòa, một số Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không lý do

 

23/02/2024
TAND Tp. HCM gửi giấy triệu tập cho các đương sự tham gia phiên tòa được  mở vào sáng ngày 19/03/2024.

Từ giữa năm 2023, với yêu cầu Luật sư tư vấn phương án giải quyết vụ việc của bà N.L.N.T (01 trong 06 đồng thừa kế của ông T), các Luật sư Công ty Luật Nam Hà đã nghiên cứu, nhận định và có được giải pháp cụ thể để từng bước tháo gỡ các vấn đề rất phức tạp của vụ án.

Với nhiều năm kinh nghiệm trong các vụ việc trước đó, đội ngũ Luật sư Công ty Luật Nam Hà đã tư vấn, giải thích pháp luật cho các đương sự, chuẩn bị kịch bản hòa giải cả ở trong và ngoài Tòa án… Đồng thời các Luật sư cũng liên tục trao đổi nghiệp vụ với các Cơ quan tiến hành tố tụng để tìm ra giải pháp giải quyết vụ việc cũng như bảo vệ tốt nhất quyền lợi, lợi ích hợp pháp cho Khách hàng.

Tại phiên tòa sáng ngày 19/03/2024, với sự tư vấn kịp thời của các Luật sư Công ty Luật Nam Hà, các đương sự đã đã thống nhất được phương án giải quyết và HĐXX đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Theo đó, ông C ủy quyền cho ông L giao ngay 02 bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ cho các đồng thừa kế của ông L. Sau khi nhận 02 bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ, các đồng thừa kế của ông T sẽ tiến hành chuyển nhượng 02 bất động sản này để thanh toán các khoản nợ của ông T. Sau khi hoàn tất nghĩa vụ thanh toán, số tiền còn lại sẽ được chia đều cho 06 đồng thừa kế, mỗi người được hưởng 1/6 giá trị./.

Chia sẻ:

Share on facebook
Facebook
Share on twitter
Twitter
Share on pinterest
Pinterest
Share on linkedin
LinkedIn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Social Media

Bài viết mới

Danh Mục